Xác nhận
Doanh nhân xưa
Doanh nhân xưa

Trương Văn Bền

Tiểu sử

Trương Văn Bền sinh năm 1883 tại Chợ Lớn. Do gia đình khá giả và có học thức, Trương Văn Bền được hưởng nền giáo dục Hán học pha trộn với giáo dục Pháp phổ biến thời bấy giờ. Từ năm 1896, ông bắt đầu học ở các trường Pháp École Municipale de Cholon, Collège de My Tho, Lycée Chasseloup-Laubat.

Năm 1889, chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức lần đầu tiên kỳ thi cao đẳng tiểu học (Brevet élémentaire), Trương Văn Bền ghi tên, thi đậu và được bổ nhiệm làm ký lục.

Năm 1901, ông Trương Văn Bền thôi làm việc nhà nước, trở lại với nghề buôn bán của cha. Lúc đầu, ông bán đậu phộng, đậu xanh, đường... trong một cửa tiệm nhỏ, tọa lạc ở số 40 rue du Cambodge, Chợ Lớn. Công việc làm ăn dần mở rộng, ông mua các loại hàng sỉ từ các thương gia người Hoa, rồi bán lại cho các tiệm bán lẻ ở Chợ Lớn.

Năm 1905, ông Trương Văn bền mở xưởng sản xuất và tinh luyện dầu ở Thủ Đức. Ông dùng máy ép bằng hơi làm ở Mỹ, mua từ Pháp. Một năm sau, ông mở một nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và một ở Rạch Các. Ông cũng có một khách sạn và một tiệm mỹ phẩm ở Chợ Lớn. Dẫu vậy, các cơ sở này không thành công bằng cơ sở sản xuất dầu của ông ở Thủ Đức.

Năm 1914, ông lập đồn điền cao su cỡ nhỏ ở Thủ Đức.

Năm 1918, ông mở thêm một cơ sở sản xuất dầu ở Chợ Lớn. Xưởng này sản xuất đủ loại dầu từ dầu nấu ăn, dầu salat đến dầu dừa, dầu castor, dầu cao su và các loại dầu dùng trong kỹ nghệ.

Xây dựng thương hiệu xà bông Cô Ba

Năm 1927, Trương Văn Bền tiếp tục mở rộng lãnh địa kinh doanh khi lập công ty khai khẩn ruộng ở Đồng Tháp Mười, trên diện tích 18.000 ha với 3.000 tá điền.

Năm 1931, Trương Văn Bền quyết định lập hãng ép dầu và làm xà bông với tên chính thức “Công ty Trương Văn Bền và các con”. Từ những nguyên liệu có sẵn như mủ thông ở đồn điền, cơ sở xay lúa gạo ở vùng Đồng Tháp Mười..., cùng với sự tìm tòi khám phá, ứng dụng những kỹ thuật mới trong sản xuất xà bông, ông đã tiết kiệm được rất nhiều số vốn đầu tư phải bỏ ra.

Sản phẩm tung ra thị trường, với chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, lại giá rẻ, sản phẩm xà bông của ông Trương Văn Bền đã đánh bại được xà bông nhập cảng và thâu tóm được thị trường toàn Đông Dương, xuất sang cả Hương Cảng, qua châu Phi và Tân Đảo (Thái Bình Dương).

Khi đã định hình được tên tuổi sản phẩm và thị trường tiêu dùng, ông Trương Văn Bền đặc biệt chú trọng vào khâu quảng cáo khuếch trương thương hiệu. Trong suốt thời gian dài, hầu hết báo chí thời đó đều có đăng mục quảng cáo “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” và “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam” của hãng Xà bông Trương Văn Bền.

Trong các cuộc triễn lãm được mở cửa hàng năm tại các tỉnh và Sài Gòn, bao giờ gian hàng của ông Bền cũng được thiết kế ấn tượng nhất với mô hình một cục xà bông to hơn gian hàng gây được sự chú ý và tò mò đặc biệt của người xem.

Hãng xà bông của ông tọa lạc trên đường Rue de Cambodge (nay là chợ Kim Biên, quận 5). Công ty của ông gọi là Trương Văn Bền và các con – Dầu và Xà bông Việt Nam (Truong Van Ben & fils – Huilerie et Savonnerie Vietnam).

Xưởng dầu của ông ở Chợ Lớn, mỗi tháng sản xuất khoảng 1.500 tấn dầu dừa; hãng xà bông Trương Văn Bền sản xuất khoảng 600 tấn xà bông và 10 tấn glycerine trong năm 1943, vào thời kỳ khó khăn ở nhiều nước do chiến tranh đệ nhị thế chiến. Công ty Trương Văn Bền và các con là công ty quan trọng nhất sản xuất dầu và xà bông trên toàn cõi Đông Dương.

Trương Văn Bền còn đưa nhãn hiệu xà bông Trương Văn Bền vào những loại hình nghệ thuật dân tộc được người Việt yêu thích như ca vọng cổ, thơ lục bát... đề cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước... khiến cho từ giới bình dân đến trí thức người Việt đều biết đến sản phẩm của ông.
Có thể nói, xà bông là sản phẩm mang lại cho ông Trương Văn Bền nhiều tiếng tăm và tiếp cận mọi người nhiều nhất. Tên tuổi của ông Trương Văn Bền gắn liền với xà bông Việt Nam, xà bông “Cô Ba”.

Trong hồi ký của mình, ông viết về sự chọn lựa tên sản phẩm xà bông: “Tôi đang tìm kiếm tên nào kêu, dễ gọi, dễ nhớ để đặt tên cho xà bông mà chưa kiếm ra. Ngoài bắc, phong trào cách mạng Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu nổi lên nhiều chỗ và đã bị thất bại đau đớn, đến lúc Tây xử tử họ ở Yên Bái thì mười người như một, trước khi đút đầu vô máy chém đều bình tĩnh hô to: “Việt Nam vạn tuế” gây một luồng dư luận sôi nổi ở trong nước và thế giới. Tôi không bỏ lỡ vội chụp lấy vụ này, lấy tên Việt Nam đặt cho xà bông, gọi savon Việt Nam để nêu lòng ái quốc đang bồng bột ở trong xứ, xà bông Việt Nam là của người Việt làm cho người Việt, người Việt yêu nước phải dùng đồ Việt Nam”.

Ngoài Việt Nam, xà bông “Cô Ba” được dùng rộng rãi tại Lào và Cam Bốt, được xuất khẩu qua Hong Kong, Tân Đảo (Nouvelle Caledonie) và một số quốc gia châu Phi. Khi được hỏi về bí quyết thành công, ông Trương Văn Bền nói:

Ở xứ mình, trong giới kỹ nghệ còn trống chỗ nhiều, muốn lập kỹ nghệ nào cũng dễ lắm. Không cần phải có vốn nhiều. Vốn ít, càng tốt hơn. Ban đầu không nên làm rình rang, đã vô ích mà còn có hại, cứ khởi sự nho nhỏ, đi lần lần từng bước. Cần nhất phải có chí nhẫn nại.

Như tôi đây, bị thất bại đã mấy phen, nhưng có thất bại mới có thêm kinh nghiệm. Thứ nhất là bền chí. Thứ hai là phải có sức khỏe, làm gì thì làm, mỗi buổi sáng tôi cũng dậy sớm tập nửa giờ thể dục.

Không có sức khỏe, hay đau ốm thì dẫu tài giỏi đến bực nào cũng thành vô dụng.

Tóm lại, sức khỏe, sự học hỏi, sự bền chí là những điều kiện của sự thành công”.

Đóng góp cho xã hội

Năm 1918, ông Trương Văn Bền được bầu làm Nghị viện Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Năm 1922, ông là thành viên Phòng Thương mại và Phòng Nông nghiệp Nam Kỳ.

Khi Sở Lúa gạo Đông Dương được thành lập (1924), ông Trương Văn Bền là Hội viên Hội đồng quản trị; Chủ tịch Liên hiệp Canh nông (Union d’Agriculture); Chủ tịch Nhà băng Tín dụng Canh nông Chợ Lớn (Caisse de Crédit Agricole du Cholon) năm 1932; Phó chủ tịch Phòng Canh nông (Chambre d’ Agriculture) trong thời gian 1932 – 1941.

Năm 1938, ông Trương Văn Bền vận động và bỏ phiếu thông qua một nghị định về phát triển thủy lợi ở Nam Kỳ với số phiếu 25-5.

Năm 1939, ông phát biểu phản đối một đạo luật của chính quyền thuộc địa nhằm hạn chế và quản lý chặt việc sử dụng thuốc cổ truyền trong quần chúng.

Ông nói trước Đại hội đồng rằng, các công dân bảo hộ và nhiều nhân vật người An Nam thuộc nhiều thành phần khác nhau, đã không được hỏi ý kiến trước khi có quyết định và đòi hỏi là đạo luật bị đình chỉ, chờ sự thành lập một ủy ban để quản lý vấn đề thuốc ta cổ truyền và thuốc tây một cách hợp lý và hài hòa.
Hội đồng Sản xuất kỹ nghệ Đông Dương (Conseil de production industriel d’ Indochine) được thành lập năm 1941, ông Trương Văn Bền là thành viên.

Cũng trong năm 1941, ông Trương Văn Bền thành lập 2 nhà máy xay lúa, sản xuất hơn 100 tấn gạo mỗi ngày.
Trong các hoạt động của mình, ông Trương Văn Bền có nhiều đóng góp sửa đổi các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và bảo vệ quyền lợi người dân bản xứ...

Trương Văn Bền là một trong những doanh nhân Việt Nam đầu tiên kêu gọi người Việt Nam sử dụng hàng nội. Trên báo chí Việt Nam, từ khi xà bông nội địa của ông Bền sản xuất vào năm 1932, trong mục quảng cáo xà bông Cô Ba thường chạy tít: "Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam". Cách quảng cáo của ông đánh vào lòng yêu nước, tự hào dân tộc để vận động người Việt dùng hàng nội. Ông phủ dày đặc các quảng cáo trên áp phích, trên xe điện, xe hơi, trên áo đấu cầu thủ bóng đá, ông đưa cả vào các thể loại âm nhạc rất được ưa chuộng như ca vọng cổ, tuồng cải lương…

Cuối đời

Sau năm 1948, Trương Văn Bền rời Việt Nam và sống tại Paris. Ông trở thành hội viên của Phòng thương mại Quốc tế (International Chamber of Commerce) và đi chu du khắp nơi trên thế giới. Ông viết hồi ký và mất ở Paris năm 1956, thọ 73 tuổi.

Thành tựu

Tên tuổi của Trương Văn Bền gắn liền với thương hiệu Xà bông Cô Ba - khẳng định tên tuổi xà bông Việt Nam trong nước và trên thế giới.

Theo bảng lượng giá để đánh thuế của Phủ toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội, năm 1941, ông Trương Văn Bền đã đóng cho Chính phủ  số tiền lên tới 107.000 đồng (giá vàng khi đó khoảng 60 đồng/lượng).

Một thời quá khứ ngang dọc - vang danh của nhà kỹ nghệ và doanh nhân Trương Văn Bền đã để lại cho chúng ta rất nhiều bài học kinh doanh vô giá.